Các chuyên gia chỉ ra rằng, loài người đã cao hơn - béo hơn - già hơn trong 100 năm qua.
Khoa học chỉ ra rằng, con người chúng ta ngày càng cao lên, to ra
và sống lâu hơn so với trước kia. Quá trình biến đổi này đã kéo dài cả
trăm năm nay.
Thực chất đây không phải là kết
quả của quá trình biến đổi gene mà là do sự thay đổi của cơ thể để thích
nghi với tác động của biến đổi bên ngoài - như chất dinh dưỡng, sự phân
phối thực phẩm, chăm sóc sức khỏe. Dưới đây là một vài thay đổi của loài người trong thế kỷ qua.
1. Loài người đã trở nên cao lớn hơn
Một
nghiên cứu khoa học ở Anh mới đây đã chỉ ra rằng, chiều cao của thanh
niên ở Anh đã tăng 10cm kể từ đầu thế kỉ XX. Một nghiên cứu khác cho
thấy vào đầu thế kỷ XX, chiều cao trung bình của nam giới độ tuổi 20 ở
Anh là 1,68m, hiện tại họ đạt đến chiều cao trung bình là 1,78m. Sự gia
tăng này chủ yếu là do cải thiện về dinh dưỡng, dịch vụ y tế.
Theo
nghiên cứu của John M.Komlos - một giáo sư thỉnh giảng ở Đại học Duke,
không chỉ nước Anh mà chiều cao trung bình ở các nước phát triển khác
cũng tăng lên.
Người
dân Hà Lan có chiều cao trung bình 1,85m - cao nhất thế giới tính đến
thời điểm hiện tại. Trong khi đó, với chiều cao 1,77m người dân Mỹ đã
từng là những người cao nhất thế giới thời kỳ Thế chiến thứ II, nay vẫn
giữ nguyên, không thay đổi.
2. Con người trở nên béo hơn
Từ
thập niên 1970, giáo sư nhân chủng học Bogin thuộc Đại học Loughborough
đã nghiên cứu về đặc điểm phát triển của trẻ em Maya và gia đình của
chúng tại Guatemala và Mỹ.
Khi
người Maya chuyển đến Mỹ, đứa trẻ họ sinh ra chỉ dài khoảng 11,4cm, cao
hơn những người anh em được sinh ra ở Mexico hay Guatemala của chúng.
Đây là kết quả của chế độ ăn uống đủ chất dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe
tốt ở Mỹ. Thế nhưng để có được chiều cao như người Mỹ, những đứa bé Maya
này phải đánh đổi bằng cân nặng, chúng có xu hướng thừa cân, béo phì.
Vậy
vì sao con người ngày càng trở nên béo hơn? Một vài nhà nghiên cứu khoa
học chỉ ra rằng việc ăn quá nhiều nhưng vận động ít là nguyên nhân
chính. Số khác phụ thuộc vào gene; một số loại virus có liên quan đến
béo phì cũng là tác nhân chủ yếu.
Khi
nghiên cứu nhóm trẻ Maya ở Florida, giáo sư Bogin nhận định, khi thế hệ
bà và mẹ bị mắc chứng thừa cân và béo phì, thế hệ con cũng rất dễ mắc
phải.
Thêm
vào đó, do hoàn cảnh sống trước đó khó khăn nên khi chuyển sang môi
trường sống mới tốt hơn, người Maya quan niệm ăn nhiều nhất có thể, do
đó cơ thể phải lưu trữ thêm rất nhiều năng lượng, dẫn đến béo phì. Cơ
chế lưu trữ chất béo do có tiền sử suy dinh dưỡng hoặc thiếu ăn này cũng
xảy ra ở nhiều nước nghèo khác trên thế giới.
3. Dậy thì sớm
Ngày
nay ở nhiều quốc gia, trẻ em dậy thì từ rất sớm. Theo báo Endocrine
Reviews, từ giữa thập niên 1800 đến 1960, độ tuổi bé gái xuất hiện kinh
nguyệt lần đầu ở Mỹ đã giảm khoảng 0,3 năm mỗi thế kỷ.
Nguyên
nhân của việc này được cho là do thực phẩm chứa nhiều dinh dưỡng hơn,
điều kiện kinh tế, chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Hiện nay, độ tuổi có kinh
nguyệt trung bình của các bé gái ở Mỹ là khoảng 12,8 - 12,9 tuổi.
Nhiều
nghiên cứu cũng chứng minh được mối liên hệ giữa bệnh béo phì với quá
trình dậy thì sớm, các bé gái có chỉ số khối cơ thể (BMI) cao hơn thường
dậy thì sớm hơn.
Theo tiến sĩ Frank Biro - giáo sư nhi khoa tại Bệnh viện Nhi Cincinnati ở bang Ohio, Mỹ: “Ngày nay, sự ảnh hưởng của chỉ số khối cơ thể đến độ tuổi dậy thì còn lớn hơn nhiều tác động của nạn phân biệt chủng tộc”.
Biro
còn khẳng định, dậy thì sớm để lại hậu quả lâu dài đối với sức khỏe. Đã
có bằng chứng chứng minh các bé gái dậy thì sớm có nguy cơ bị cao huyết
áp và bệnh tiểu đường tuýp 2 cao hơn các bé gái dậy thì đúng tuổi hoặc
muộn hơn.
Bên cạnh đó, dậy thì sớm cũng để lại
nhiều hậu quả về mặt xã hội. Một đứa trẻ với cơ thể dậy thì đồng nghĩa
với việc gặp nhiều nguy hiểm tiềm ẩn và đủ điều kiện để kết hôn. Điều
này có nghĩa là bé đó khó có thể tiếp tục học tập hoặc có một sự nghiệp
cho riêng mình. Vì vậy theo các chuyên gia, các bé càng dậy thì muộn thì
càng nhận được giáo dục tốt hơn.
4. Tuổi thọ cao hơn
Con
người ngày nay sống lâu hơn so với trước kia rất nhiều. Theo Tổ chức Y
tế thế giới (WHO), từ đầu thế kỷ XX đến năm 2012, tuổi thọ trung bình
của con người đã tăng vọt từ 30 lên đến 70 tuổi.
Tổ
chức này cũng dự báo tuổi thọ trung bình của nữ giới được sinh ra ở
những nước phát triển năm 2030 sẽ lên đến 85 tuổi. Sự gia tăng mạnh mẽ
này là kết quả của sự tiến bộ vượt bậc về y học, điều kiện vệ sinh, đặc
biệt là nguồn nước sạch.
Tuy
những yếu tố này giảm thiểu tỷ lệ tử vong do các bệnh truyền nhiễm gây
ra nhưng tỷ lệ chết vì các bệnh thoái hóa như Alzheimer, bệnh tim, ung
thư ngày càng tăng.
Nói cách khác, để có tuổi
thọ dài hơn, con người cũng phải "trả cái giá" tương đương. Các căn bệnh
tự miễn như bệnh đa xơ cứng và tiểu đường tuýp 1 dần trở nên phổ biến.
Misao Okawa đã 116 tuổi và là người phụ nữ sống lâu nhất thế giới tới thời điểm hiện tại.
Một
vài nhà khoa học cho rằng, sự gia tăng các căn bệnh này liên quan đến
việc cải thiện, đảm bảo vệ sinh môi trường sống. Khi cơ thể không tiếp
xúc với bất kỳ hoặc rất ít vi trùng, hệ thống miễn dịch sẽ có những phản
ứng thái quá với ngay cả những vật lành tính nhất.
Tạm kết:
Vậy
điều gì sẽ xảy đến với loài người trong tương lai? Dù muốn hay không,
chúng ta đã và đang thay đổi chiều hướng tiến hóa của tương lai loài
người.
Sự thay đổi này không phải là do quyết
định của một nhóm người đã lên kế hoạch, suy tính cẩn thận mà đó là kết
quả của hàng ngàn quyết định diễn ra mỗi ngày do các hoạt động của con
người, sự phát triển khoa học - kỹ thuật công nghệ, văn hóa. Vì vậy, rất
khó dự đoán được điều gì sẽ xảy ra với con người trong tương lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét